Cha
con Hồ Quý Ly bị bắt và giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Giặc Minh thực
hiện chính sách cai trị rất tàn bạo, hà khắc nhằm hủy diệt, đồng hóa
nước ta. Tội ác của giặc đầy rẫy. Chúng đào mồ mả của ta, bắt bớ dân ta,
chém giết người trung lương, ngược đãi kẻ cô đơn, góa bụa, nhân dân
trong nước không thể sống nổi. Pháp luật và hình phạt của chúng thì hà
khắc và càn rỡ, chẳng gì là chúng không làm, nào cấm mắm muối khiến cho
dân ta khốn đốn về việc ăn uống, nào phu phen, thuế má nặng nề làm cho
của cải trong dân cạn kiệt. Bất kể là thứ gì ta có là chúng cố hết sức
vơ vét không bỏ sót tí nào để lấp cái lòng ham muốn sâu như hang hốc.
Còn
người dân nước ta thì chúng lại bảo là bọn phản trắc khó trị. Chúng xảo
quyệt đặt dinh này, ấp nọ, xếp đặt nào quan, nào tước, bắt bớ sĩ phu ta
đem về triều rồi đem họ đi an trí ở đất Bắc. Trước nỗi thống khổ của
dân ta đã có trên 200 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của các vương hầu, quí
tộc, sỹ phu ở khắp các vùng miền chống giặc Minh xâm lược nhưng đều
nhanh chóng thất bại do không qui tụ được lòng dân, chỉ ra đường hướng
rõ ràng cứu nước, cứu dân.
Sinh
ra, lớn lên từ một gia đình mà ông tổ bốn đời, ông nội, cha đẻ đều làm
quân trưởng ở đất Khả Lam, là những người hay làm việc thiện, sẵn lòng
cưu mang giúp đỡ người khó khăn hoạn nạn nên Lê Lợi đã tiếp thu, phát
huy truyền thống gia đình. Làm phụ đạo đất Khả Lam ông nổi tiếng là
người có đức độ, giàu lòng nhân nghĩa chăm lo làm ăn gây dựng sản
nghiệp.
Được
chứng kiến nỗi khổ cực, cảnh đàn áp, chém giết dã man của giặc ông đã
dùng lời lẽ nhún nhường, dùng nhiều vàng bạc, châu báu hối lộ lũ tướng
giặc nhưng cũng chẳng được yên. Với lòng yêu nước thương nòi ông thề
không đội trời chung với lũ giặc, song thế và lực còn yếu nên đành phải
náu mình nơi quê hương hoang dã chờ thời cơ. Lê Lợi ngày đêm miệt mài
đọc sách thao lược, nghĩ suy về lẽ hưng phế. Ông dốc sạch của cải trong
nhà đãi khách rất hậu, đón mời người trốn tránh, thu nạp kẻ chống đối
nhà Minh, ngấm ngầm nuôi giấu những kẻ mưu trí. Ông đạo Cham luôn đôn
đốc mọi người trong nhà, gia nhân chăm lo việc cày cấy, tích trữ lương
thảo, rèn sắm vũ khí để khi có thời cơ là phất cao cờ đại nghĩa đánh
đuổi giặc Minh xâm lược cứu nước, cứu dân.
Mùa
xuân năm Bính Thân (1416) ông cùng 18 người bạn thân tín tổ chức hội
thề tại Lũng Nhai (Ngọc Phụng, Thường Xuân) thề cùng trời, đất, núi,
sông… nguyện đồng lòng đánh đuổi giặc Minh xâm lược để giành lại cõi bờ.
Sau hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi khẩn trương chuẩn bị lực lượng và chính
thức phất cao cờ đại nghĩa vào mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) ngay tại đất
Lam Sơn. Ông xưng là Bình Định Vương và được tướng sỹ tin tưởng tôn là
chủ soái tối cao, người tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân đánh
giặc.
Lê Lợi nghe Nguyễn Trãi đọc Bình Ngô đại cáo
(tranh sơn dầu của Hoàng Hoa Mai)
Dõi
theo quá trình hình thành và phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
chúng ta ngày càng khâm phục và tự hào về tài năng kiệt xuất của Lê Lợi
trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Từ lực lượng ban đầu chỉ có 35
quan văn, quan võ, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sỹ, 200 dũng sỹ và số
người tham gia khởi nghĩa chỉ khoảng 2.000 người. Trong khi đó số quân
Minh đông tới 450.700 tên quả là quá chênh lệch. Nhưng với ý chí: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không cùng sống” ông
vẫn giữ vững lòng tin vào đội ngũ tướng sỹ. Đặc biệt ông hoàn toàn tin
tưởng vào sức mạnh của nhân dân những người “manh lệ” có thân phận bình
thường nhưng sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.
Chính
nhờ nhãn quan chính trị sáng suốt đó đã giúp ông tập hợp, qui tụ, đoàn
kết mọi tầng lớp nhân dân quanh cờ đại nghĩa tạo thành sức mạnh vô địch
đè bẹp kẻ thù. Sự đức độ, lòng nhân nghĩa, khoan dung cùng lòng căm thù
giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm đánh giặc đến cùng được vợ con, gia đình
và những người thân đồng lòng ủng hộ ngay từ những ngày đầu.
Các
cháu gọi ông là chú ruột như Lê Thạch, Lê Khang, Lê Khôi, gọi ông là
cậu ruột như Đinh Lễ, Đinh Liệt… hoặc những người bạn như gia đình Lê
Lai ở Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Lê Sao, Lê Văn Linh ở Thọ Hải, Phạm Vấn, Lê
Bôi ở Nguyên Xá, Nguyễn Thận ở Mục Sơn, Thọ Xuân hay Lê Cố ở Nhân Trầm,
Thường Xuân Lê Tông Kiều ở Quảng Xương, Trịnh Khả, Võ Uy ở Vĩnh Lộc,
Trịnh Đồ, Đồ Bí, Hà Mộng, Lê Khương, Hà Độ ở Nông Cống đều kéo về Lam
Sơn tụ nghĩa. Nhiều hào kiệt các nơi nghe tin cũng tìm về đất Lam Sơn
như Trần Nguyên Hãn ở Vĩnh Phúc, Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng ở Hà Nội,
Nguyễn Xí ở Nghệ An, Lưu Trung ở Thái Nguyên… Mỗi người đều có thân phận
địa vị xã hội khác nhau nhưng họ đều gửi gắm đặt niềm tin ở vị chúa Lam
Sơn con người đức độ, nhân nghĩa, khoan dung mà họ đã cảm nhận được qua
lời nói, việc làm của ông.
Đội
quân “phụ tử” đó trên dưới cùng một lòng giữ vững niềm tin son sắt vào
vị chủ soái tối cao của mình trong những năm tháng đầu chống giặc tại
vùng núi rừng miền Tây Thanh Hóa. Nghĩa quân đã phải trải qua bao gian
nan thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Nhưng với lòng tin tuyệt
đối vào vị chủ soái của các tướng sỹ, sự chở che đùm bọc, cưu mang hết
lòng của nhân dân các dân tộc Kinh, Mường, Thái, nơi nghĩa quân trú quân
hoặc đi qua nên Lê Lợi đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt hiểm
nghèo nhất như: “Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần/ Lúc Khôi huyện quân không một lữ”.
Sau
một thời gian tạm hòa hoãn để bổ sung củng cố lực lượng, lương thảo, vũ
khí, theo kế của Nguyễn Chích ông đã tiến quân vào Nghệ An… Các trận
đánh lẫy lừng ở Trà Long, Bồ Ải vào năm Giáp Thìn (1424) rồi đánh chiếm
Tân Bình, Thuận Hóa năm Ất Tỵ (1425) tiến đại quân ra Thanh Hóa và đất
Bắc vào mùa thu Bính Ngọ (1426) bao vây thành Tây Đô, Đông Quan, Cổ
Lộng, Chí Linh. Với tư tưởng: “Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” ông
ngày càng thu phục nhân tâm, củng cố lòng tin trong nhân dân nên càng
đánh càng mạnh. Lúc bao vây thành Đông Quan đội quân của Lê Lợi đã có
tới 30 vạn người là một sự phát triển thần kỳ so với buổi ban đầu.
Những
trận đánh diệt viện vây thành lừng lẫy ở Ninh Kiều, Tốt Động, Chúc Động
đưa giặc vào thế bị động khiến tướng giặc phải cố thủ trong thành Đông
Quan. Tiếp đó quân ta đánh tan 15 vạn viện binh giặc do các tướng đầu sỏ
của giặc là Liễu Thăng, Mộc Thạnh cầm đầu ở các trận Chi Lăng, Xương
Giang, Lãnh Câu, Đan Xá buộc tổng binh giặc là Vương Thông phải ký hội
thề Đông Quan. Với khát vọng yêu hòa bình, ghét chiến tranh cũng là để
dứt mối chiến tranh muôn thuở, Lê Lợi đã mở đường hiếu sinh cấp ngựa,
thuyền, lương thảo cho bọn Vương Thông dẫn toàn bộ tàn quân hơn 30 vạn
người theo hai đường thủy bộ rút về nước vào ngày 12 tháng 12 năm Đinh
Mùi (1427).
Sau
10 năm trải qua bao nỗi gian lao vất vả, sau hơn 20 năm chịu ách đô hộ,
thống trị tàn bạo, hà khắc của giặc Minh, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự
lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Lê Lợi đã giành lại giang sơn, đất
nước. Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, thuận theo lẽ trời, hợp với
lòng người ông lên ngôi Hoàng đế vào ngày 15 tháng 4 năm 1428 đặt niên
hiệu Thuận Thiên, quốc hiệu là Đại Việt, mở ra vương triều Hậu Lê kéo
dài hơn 360 năm, là triều đại dài nhất trong lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam.
Với
tấm lòng yêu nước, thương dân trong gần 6 năm trị vì nhà vua luôn thức
khuya, dậy sớm, giữ nếp sống kiệm cần, chăm lo việc triều chính. Vua thi
hành chính sự thực rất khả quan như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc,
mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu
thập sách vở, mở mang trường học…
Nhờ
đó chỉ trong một thời gian ngắn đời sống người dân được no ấm, yên vui.
Cuối đời ông có phạm một số sai lầm nghe lời xiểm nịnh mà giết hại một
số công thần. Nhưng nhận ra lỗi lầm đó nên trước khi qua đời ông dặn con
cháu tuyệt đối không sử dụng những kẻ ấy. Với những công lao, sự nghiệp
lẫy lừng đó ông xứng đáng là anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất.
Đánh
giá, khẳng định những đóng góp lớn lao, vĩ đại của ông với nước, với
dân các sử gia như Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú
dùng nhiều lời lẽ hết mực ca tụng công đức của một vị vua khai sáng
vương triều. Nhà yêu nước Phan Bội Châu đầu thế kỷ XX đã lập một bảng
vàng các anh hùng dân tộc đã gọi các vua Hùng là “Tổ mở nước” gọi Ngô
Quyền là “Tổ Trung hưng thứ nhất”, Lê Lợi là “Tổ Trung hưng thứ hai”.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa khi
nhắc đến những anh hùng cứu nước tiêu biểu nhất của dân tộc ta đã nhắc
đến những Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung… Những sự ghi nhận,
khẳng định trên hoàn toàn xứng đáng với những đóng góp lớn lao của Lê
Lợi với nước, với dân trong giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc đầu
thế kỷ XV.
Nguồn: vanhoadoisong.vn