Năm 1928, với tên gọi là Thầu Chín, Bác Hồ sống và hoạt động trong kiều bào Việt
Nam ở Xiêm cho đến cuối năm 1929. Đây là một trong những thời gian Người sống lâu nhất với đồng bào, trước năm 1945.
Sau khi đặt chân đến Phi Chịt, Người nêu ý kiến
đi ra U Đon để tìm gặp Việt kiều. Từ Phi Chịt đến U Đon phải đi bộ,
băng rừng hàng tháng. Mỗi người đi đường đều gánh theo hai thùng sắt
tây đựng quần áo, đồ dùng lặt vặt, có nắp đậy để tránh mưa núi, vắt
rừng. Thức ăn mang theo cũng là 10kg gạo và một ống “chẻo” (thịt gà
hoặc sườn lợn băm nhỏ rang muối. Sau này, năm 1945 khi đi Côn Minh, Bác
cũng mang theo một ống “chẻo” nhưng đặt tên là muối Việt Minh).
Thầu Chín cùng một số anh em ra đi vào dịp mùa thu.
Cây rừng đang rụng lá. Trời nắng to, đường đi đá sỏi gập ghềnh, mọi
người đều mệt mỏi. Thấy Thầu Chín không quen gánh, có người muốn giúp
đỡ, nhưng Thầu Chín không chịu. Ít ngày sau, đôi chân của Thầu Chín đã
sưng lên, rớm máu, tấy đỏ. Anh em lại yêu cầu Thầu Chín nhường gánh.
Thầu Chín nói: “Thánh hiền đã dạy: “Thiên hạ vô nan sự, nhân tâm tự bất
kiên”, ý nói là dưới trời này không có việc gì khó, chỉ sợ lòng người
không kiên trì... cứ cố gắng, để thế vài hôm nữa sẽ quen đi...” Quả
nhiên mấy ngày sau nữa, bước chân Thầu Chín đã nhanh, đi gọn, đôi thùng
đung đưa có vẻ đã nhẹ nhàng. Mấy tháng sau, có lần từ U Đon về đến Xa
Vang đường dài hơn 70 km, Thầu Chín chỉ đi hết một ngày.
Hơn 20 năm sau, vào cuối mùa đông năm 1950, trong
một lần gặp gỡ anh em thanh niên xung phong làm đường ở Đèo Khế, Thái
Nguyên, Bác Hồ đã đọc tặng bốn câu:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.
Bốn câu thơ ấy, tuy là mượn ý của “thánh hiền” nhưng
đã được kiểm nghiệm trong thực tế cuộc sống của Bác Hồ mấy chục năm
trước đó...
Trích “Bác Hồ - con người và phong cách”