Chuyên đề 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO VÀ LÀ NHÂN TỐ
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
------------
Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, xóa bỏ
hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến
tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước;
tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền
độc lập dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
từ năm 1930 đến nay đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
I- SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ
sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước
Phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập
dân tộc bắt đầu từ ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong
trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu
anh dũng của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu;
khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực… Đó là các cuộc
khởi nghĩa theo tiếng gọi “Cần Vương” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật,
Hoàng Hoa Thám…; các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân… Là cuộc
khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo… Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống thực
dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân cơ bản là do đường lối
cứu nước chưa đúng, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Thực tiễn
của phong trào yêu nước Việt nam đã đặt ra yêu cầu tìm con đường cứu nước mới.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai
thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam đã
có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời là giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong
kiến. Xã hội Việt Nam
tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp
địa chủ phong kiến tay sai. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và
nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai gắn bó với nhau, không thể tách rời
nhau.
Sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam mang trong mình chủ nghĩa yêu nước truyền
thống cùng với ý thức giai cấp là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam
là sự kết hợp giữa dân tộc và thời đại. Ra nước ngoài, tìm con đường cứu nước
mới, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, trở
thành chiến sĩ giải phóng dân tộc và chiến sĩ cộng sản quốc tế. Người đã hoạt
động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, phong
trào công nhân quốc tế, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin qua các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam trong nước đón nhân. Nó lôi
cuốn những người yêu nước Việt Nam
đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên các phong trào đấu tranh sôi nổi
khắp cả nước, trong đó có giai cấp công nhân. Sự phát triển của phong trào công
nhân và của các tầng lớp nhân dân đòi hỏi phải có đảng chính trị lãnh đạo. Vì
vậy, đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Việc Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam phản ánh xu thế tất yếu và bước phát triển nhảy vọt của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam.
2. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc
gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân Việt Nam.
Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của
Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội
quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở
nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại
trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công
nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
II- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁC
GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
1. Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành chính
quyền và bảo vệ nền độc lập dân tộc
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chính quyền
- Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã
quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân
yêu nước, xây dựng nền lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống
thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, hy
sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945); khi thời
cơ đến, Đảng đã phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công đã giành lại nền độc lập của dân tộc sau hơn 80
năm bị đô hộ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
châu Á. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
b) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ
chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt
với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên
tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối
với các thế lực thù địch, Đảng đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu
thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian để củng cố lực lượng. Với đường lối
chính trị sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc,
củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
c) Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta,
mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, thực dân Pháp vẫn ngày càng lấn tới vì chúng có
dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Dân tộc ta buộc phải chiến đấu để bảo vệ nền
độc lập của dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân cả
nước đồng loạt đứng lên với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[1].
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua
mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (7-5-1954).
Chiến thắng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX; góp phần phá vỡ hệ thống
thuộc đại của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực
dân.
d) Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được
giải phóng, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã
xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước tạm thời
bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác
định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai
trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam; cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành đồng thời hai cuộc
cách mạng; cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả
nước ta tiến hành cuộc kháng chiên chống Mỹ cứu nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”,
“hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch
nó đi”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh thắng các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 và thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày
nay, một dân tộc dù nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin, đoàn
kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh để giành độc lập và dân chủ, có thể chiến
thắng một kẻ thù xâm lược.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã
hội mới (từ năm 1975 đến nay)
- Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là
nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nền do chiến
tranh để lại. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên
ngoài bao vây, cấm vận…, luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu
từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trải qua nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở
ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành
việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa -
xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội
đạt được còn thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có
mặt mất cân bằng nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã
nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phản ánh tích cực những
mặt sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong
lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991 -1996), Đại hội VIII (1996 -
2001), Đại hội IX (2002 - 2006); Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát
triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần
sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (tháng 4 - 2006) đã khẳng định: Sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ
lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Điều đó được thực hiện
trên cả hai mặt: những thành tựu trong thực tiễn và trong nhận thức.
Về mặt thực tiễn, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị -
xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp.
Về mặt lý luận, Đảng đã nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực
còn yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát
hiện ra những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa
chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công kahi tự phê bình, nhận khuyết điểm trước
nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân
dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
III- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp công nhân
ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2].
Đảng của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào
cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam
là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được đông
đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[3].
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam
là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam,
của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu
bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước
- V.I. Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn
khó hơn. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực
lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành
quả cách mạng. Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất
của giai cấp và dân tộc trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi
đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
- Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt
nam có khả năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường
cách mạng do Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy luật phát triển của xã
hội. Đảng không có mục đích tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến
bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
- Lịch sử cách mạng Việt Nam
cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế
được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong quá trình đấu
tranh giai cấp và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham gia cùng
với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng Cộng
sản Việt Nam
trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời phấn
đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
IV- NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA
ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 6-1991) đã tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có
5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu ra năm bài học lớn của cách
mạng Việt Nam.
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với
nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to
lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân
Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một
chân lý: Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ
đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi
ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của
Đảng cầm quyền và làm cho sự nghiệp cách mạng bị tổn thất.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử to lớn, lâu dài
của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo
nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là
độc lực chủ yếu để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công
nghệ, toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên
trong và bên ngoài có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Sức mạnh dân tộc,
sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất nước. Sức mạnh thời
đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển
không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, của các thế lực cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh dân tộc, nguồn lực
bên trong là yếu tố quyết định, đồng thời được bổ sung và nhân lên khi kết hợp
được với sức mạnh thời đại và nguồn lực bên ngoài.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường
xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực
tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Muốn vậy, Đảng
cần quán triệt những nội dung cơ bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng.
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X của Đảng đã xác định nhiệm vụ
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, để “phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển”; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiệ đại, “thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, sánh vai cùng các nước trên thế
giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại”[4]./.