ĐỘI TNTP HỒ CHÍ MINH
HĐĐ HUYỆN THỌ
XUÂN
***
Để tạo điều kiện cho công tác tổ chức Đêm hội Trăng rằm,
Hội đồng Đội huyện giới thiệu một số sự tích đêm Trung thu cho các đơn vị tham
khảo:
SỰ TÍCH TẾT TRUNG THU
Tết Trung Thu: theo âm lịch là ngày rằm tháng 8
hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông
Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng
đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh
dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng
lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi người ta còn
tổ chức múa lân, múa sư tử, múa rồng để các em vui chơi thoả thích.
Tết Trung thu có từ bao giờ?
Theo sử sách, Tết Trung thu đã
có cách đây ít nhất 2.000 năm. Từ thời cổ xưa, các vị vua chúa có tục lệ tế mặt
trời vào mùa xuân, tế mặt trăng vào mùa thu.
Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là chính giữa mùa thu được coi là ngày
"lành" để làm lễ tế thần mặt trăng. Ở nước ta và một số nước châu á
khác, ngày 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm được lấy làm ngày Tết Trung thu.
Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng
trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên
1.000 năm. Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế
thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi
là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn
tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không
khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Đêm
Trung thu, các em rước đèn, múa sư tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam
gọi là múa lân. Lân còn gọi là kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cái.
Lân là con vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng
(phượng hoàng). Lân là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng
rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới
bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn
thấy nó được. Thoạt nhìn, đầu lân giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân
thành múa sư tử. Ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong
dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng
50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và
phía dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt
đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy
quân vì hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến
vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa.
Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được. Trẻ em rất thích ăn bánh
Trung thu, múa lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thu nghiễm nhiên trở
thành Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.
Tục vui Tết
Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu
thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một
đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm
cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua
lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc
đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực
rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc
Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ
khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng
cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ
Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua
thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát
và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua
mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến
khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm
Trung Thu .
Cũng có người cho rằng tục
treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh
nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua
Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi
trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày
rằm tháng tám trở thành tục lệ.
Ý nghĩa tết Trung Thu
Tết Trung Thu có nguồn gốc từ
Trung Quốc, là ngày lễ truyền thống của dân tộc Đông Á. Tết Trung Thu không chỉ
là ngày tết của người Trung Hoa, mà còn là ngày tết của những quốc gia chịu ảnh
hưởng của Trung Quốc như Nhật, Hàn Quốc, Việt Nam...Theo lịch sử Trung Quốc,
tháng 8 âm lịch là tháng thứ hai của mùa Thu, người xưa gọi là "Trọng
Thu", vì thế dân gian gọi là Trung Thu hay là lễ tháng 8, lễ giữa tháng 8,
lễ Trăng... Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho
các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo
trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo,
mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng
kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình
yêu gia đình lại càng khắng khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta
mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô,
bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác.
Người Trung Hoa thường tổ chức
múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng
trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa,
người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống
quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".
Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ
em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa
màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm
tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu
màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
* Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám.
* Tỏ trăng Mười Bốn
được tằm, đục trăng hôm Rằm thì được lúa chiêm.
Sự
tích "Đèn kéo quân"
Ngày xưa, gần đến dịp tết
Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ
lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân
nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ,
Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái
Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta
bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua".
Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy
những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi
chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem
chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa
nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của
chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: "Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa
đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá
tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay
luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm
người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt
lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện
cá tính của con người". Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt
lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan,
người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy.
Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu. Từ đó, mỗi
khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng
đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo
quân.
Sự
tích chị Hằng Nga
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời,
cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như
không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu
Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng
chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính
và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo,
trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính. Không lâu sau, Hậu Nghệ
lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả
ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài
gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên
đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu
thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên
trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa
thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược
của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba
ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa
đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng
Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất
tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp
đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống
thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên
trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với
nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối
hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy
ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng
Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân
kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền.
Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có
thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến
hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn
và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung
trăng đang nhớ đến mình.
Sau
khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt
bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình
an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân
gian
Sự tích bánh trung thu
Bánh trung thu tượng trưng cho
sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa
Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời
nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.
Tương truyền vào thời đó,
người Trung Nguyên không chịu nổi ách thống trị của người Mông Cổ, những người
có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng
đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra
một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi mọi người mua bánh trung
thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua bánh về và cắt ra,
nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi nghĩa”, nhờ
vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ đó,
bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
Sự tích Thỏ Ngọc:
Tương truyền vào thời xa xưa,
có một cặp thỏ tu luyện ngàn năm, đắc đạo thành tiên. Chúng có bốn chú thỏ con
trắng tinh và đáng yêu. Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế triệu kiến thỏ chồng lên
thiên cung. Khi đến Nam
thiên môn , nhìn thấy Thái Bạch Kim Tinh dẫn theo thiên tướng áp giải Hằng Nga
đi ngang. Thỏ tiên không biết đã xảy ra chuyện gì, liền hỏi một vị thần gác
cửa. Sau khi nghe xong hoàn cảnh của Hằng Nga , Thỏ tiên cảm thấy Hằng Nga chỉ
vì giải cứu bách tính mà vô tình chịu tội, nên rất thương cảm. Nghĩ đến Hằng
Nga một mình bị nhốt ở cung trăng, cô đơn đau khổ, nếu có người ở với nàng thì
thật tốt, chợt nghĩ đến bốn con của mình, Thỏ tiên đã lập tức bay trở về nhà.
Thỏ tiên đem câu chuyện Hằng Nga kể
với vợ và nói muốn đưa một thỏ con đi làm bạn cùng Hằng Nga . Thỏ vợ tuy vô
cùng thông cảm với Hằng Nga, nhưng lại không nỡ rời xa các con yêu! Các thỏ con
cũng không muốn rời xa cha mẹ, thỏ nào cũng khóc. Thỏ cha nói: “Nếu ta bị nhốt,
các con có chịu ở với ta không? Hằng Nga vì giải cứu bách tính mà bị liên lụy,
chẳng lẽ chúng ta lại không thương nàng? Các con, chúng ta không thể chỉ nghĩ
đến bản thân!”
Các
thỏ con rất hiểu lòng cha, nên đều đồng ý đi. Hai vợ chồng thỏ nước mắt lưng
tròng, nhìn các con mỉm cười. Chúng quyết định để thỏ út đi. Thỏ út từ biệt cha
mẹ và các chị, lên cung trăng ở cùng Hằng Nga./.