LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Mùa xuân năm 1931, từ ngày 20 đến ngày
26/3, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, Trung ương
Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về
công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như
các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viên
của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển lớn mạnh của Đoàn
trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức Đoàn
cơ sở với khoảng 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành tổ
chức Đoàn từ xã, huyện đến cơ sở.
Sự phát triển lớn mạnh của Đoàn đã đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta.
Đó là sự vận động khách quan phù hợp với cách mạng nước ta; đồng thời,
phản ánh công lao trời biển của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng
kính yêu – Người đã sáng lập và rèn luyện tổ chức Đoàn. Được Bộ Chính
trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của
Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội toàn quốc lần thứ 3
họp từ ngày 22 – 25/3/1961 đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 (một ngày
trong thời gian cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, dành để bàn
bạc và quyết định những vấn đề rất quan trọng đối với công tác thanh
niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Ngày 26/3 trở thành ngày vẻ vang
của tuổi trẻ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quang
vinh.
Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần:
• Từ 1931 – 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
• Từ 1937 – 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
• Từ 11/1939 – 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
• Từ 5/1941 – 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
• Từ 25/10/1956 – 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
• Từ 2/1970 – 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
• Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã
chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ Quốc, vì chủ nghĩa xã hội đã
liên tiếp lập nên những chiến công xuất sắc và trưởng thành vượt bậc.
LỊCH SỬ TÊN GỌI CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Mỗi chặng đường lịch sử của dân tộc,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có những hình thức đấu tranh và những nhiệm vụ đặt
lên hàng đầu khác nhau. Với mỗi giai đoạn, tên gọi của Đoàn đã được
thay đổi.
1. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp
được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc
hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn
biến tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị T.Ư Đảng
đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong
thời kỳ mới.
Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này
là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ
trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau đổi thành mặt trận Thống nhất
Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định
quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động TN. Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu
năm 1939, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương mang tên Đoàn Thanh niên
Dân chủ Đông Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị quyết của
Đảng như trên đã nêu. Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động công khai, có
cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ “Bạn dân”, “Thế giới”, “Mới” phát
hành ở cả ba miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng
vạn đoàn viên, đấu tranh kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp nối
truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931 –
1935).
Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn
còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình
thành các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Nhiều tác phẩm chính trị, văn
học của C.Mác. F.Angghen, V.I.Lênin, Goocki… như: “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản”, “Tư bản”, “Nhà nước là gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách do
các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như: “Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh
và Vân Đình, “Mác xít phổ thông” của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông
đảo đoàn viên, thanh niên hân hoan đón đọc.
Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng,
phong trào TN và tổ chức Đoàn được củng cố, phát triển sâu rộng, có hệ
thống từ cơ sở lên đến tỉnh, thành và xứ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến
thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách
đàn áp, khủng bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và TN
ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại hoạt động bí mật.
2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương
Tháng 11/1939, T.Ư Đảng họp Hội nghị lần
thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). NQ Hội nghị nhấn mạnh giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của CMGP dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của
CM Đông Dương. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản
đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai
cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của
chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh
niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế Đông
Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức TNCS và TNDC trước đây.
Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy và các trường
học. Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ chức
chặt chẽ. Những ĐVTN Dân chủ được thử thách, lựa chọn và chuyển thành
ĐVTN Phản đế, các hội viên TN trong các tổ chức TN phổ thông được giao
những công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.
Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược
Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là
phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thống trị. Nhưng nhân dân Việt Nam
và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này không chịu khuất phục: Tháng
9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng
nổ với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao Vàng; tháng 1/1941, nổ ra
cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.
Các tổ chức Đoàn TN Dân chủ sau đó là
Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh niên đi đầu trong các cuộc đấu
tranh và khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn
bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
3. Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
Tháng 11/1940, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 7
họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: “Vấn đề tổ chức
các đoàn thể quần chúng”. Nghị quyết hội nghị ghi: “Vì chính sách của
Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục đích các hội quần
chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu…… Việt Nam thanh niên Cứu
quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22 tuổi muốn
tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
bí mật về nước để cùng Ban chấp hành TW Đảng trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng trong tiến
trình phát triển của cách mạng nước ta…
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của TƯ
Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn ái Quốc, đại diện của Quốc tế
cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá:
“Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân
dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp – Nhật, Hội nghị quyết định thành
lập Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu
quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc – Việt Nam – một tổ chức của
những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên
do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa
lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn
TN Cứu quốc trong cao trào đấu tranh của giải phóng dân tộc. Trong suốt
chặng đường dài từ 1941 – 1956, Đoàn TNCQ Việt Nam đã đóng góp to lớn,
kể cả hy sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy trong Cách mạng Tháng
Tám, lập nên Nhà nước Dân chủ, cộng hòa – Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam á. Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt
Nam được triệu tập tại căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là Đại hội
đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm trên 400 đại biểu của ba miền
đất nước. Sau đó, Đoàn đã vận động đoàn viên, TN đi tiếp chặng đường hơn
9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh góp phần xứng đáng làm nên một
Điện Biên chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc (7/1954), bắt
tay xây dựng hậu phương lớn XHCN ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng
giải phóng miền Nam.
4. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
Tháng 7/1954, hòa bình đợc lập lại trên
miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị T.Ư Đảng
trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trơng đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam
thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam thành một tổ
chức thực sự có tác dụng là lực lợng dự trữ và cánh tay của Đảng.
Quyết nghị có đoạn viết: “Đảng ta là
Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn TNCQ Việt Nam đổi tên thành Đoàn TNLĐ
Việt Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi, thêm gắn bó với Đảng và
do đó càng quyết tâm phấn đấu đến cùng dới ngọn cờ của Đảng”.
Trong “Quyết nghị về đổi tên Đoàn TNCQ
Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt
Nam” (Ban Bí th T.Ư – ngày 19/10/1955) đã nêu rõ tính chất, nhiệm vụ,
vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam.
Về tính chất của Đoàn TNLĐ Việt Nam,
Quyết nghị nêu: “Đoàn TNLĐ Việt Nam là một tổ chức quần chúng tiên tiến
của TN Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đoàn TNLĐ Việt Nam
là trờng học của chủ nghĩa Mác-Lênin của thanh niên, là nơi bồi dỡng
lực lợng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của
Đảng”. Quyết nghị của Đảng đã vạch rõ nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ
mới và đề ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:
1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn… Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào chưa có đủ điều kiện đổi tên Đoàn thì chưa đổi.
2. Làm cho ĐVTN có một nhận thức đúng
đắn về Đoàn TNLĐ Việt Nam. Việc kết nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn phải
trên cơ sở tự nguyện, tự giác của TN.
3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện
những nhiệm vụ công tác chính trớc mắt do Đảng đề ra… Việc xây dựng Đoàn
TNLĐ Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể cho
từng vùng…”.
Quyết nghị nêu kết luận: “Việc đổi tên
Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam là một việc rất quan trọng
có ảnh hởng đến việc xây dựng một phong trào thanh niên lớn mạnh trong
toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng lao động và
việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần
nắm vững đờng lối vận động thanh niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo thực
hiện nghị quyết này”.
5. Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân
tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập rèn luyện Đoàn ta qua
đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước ta vĩnh
biệt Người với nỗi xót thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng
thành của lớp thanh niên nước ta là một trong những thành quả vĩ đại của
cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay và mai sau.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác,
đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt
Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 –
3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và đội
thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.
Nghị quyết nêu rõ: “… Thể theo nguyện
vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam”. BCH T.Ư
Đảng Lao động Việt Nam Quyết định:
- Đoàn TNLĐ Việt Nam nay là Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh
- Đội TNTP Việt Nam nay là Đội TNTP Hồ Chí Minh
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh
Tổ chức Đoàn và tổ chức đội được mang
tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ
quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm rõ mục đích và
tính chất của Đoàn là đội tiên phong chiến đấu của TN, đi đầu phấn đấu
cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
6. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngày 26/3/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45
ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Tại Lễ kỷ niệm
này, tổ chức Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang tên chung là Đoàn
Thanh Niên Lao động Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày
14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi tên đảng Lao động
Việt Nam (2-1951) thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và thể theo nguyện vọng
của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV đã quyết định đổi tên
Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh (1970) thành: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và
phong trào thanh niên trong giai đoạn mới là: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xứng đáng là trường học CSCN của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay
đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng”.
Được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán bộ đoàn viên nước ta.