Câu 29. Nguy
cơ nào là lớn nhất đe dọa sức khỏe và tính mạng của VTN?
Ngoài những nguy cơ về bệnh tật, tai nạn có thể xảy ra
đối với mọi nhóm tuổi, các em thuộc lứa tuổi VTN có hai nguy cơ lớn cần phải
nói đến là tình trạng mang thai ngoài ý muốn (gây ra hay mắc phải) và nguy cơ
mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh LTQDTD, HIV/AIDS.
Các bậc cha mẹ cần nhớ rằng, lứa tuổi VTN là sự chuyển
tiếp từ trẻ em sang người lớn; các em hầu như chưa biết và chưa hề có linh
nghiệm gì trong cuộc sống, nhất là về các hoạt động tình dục; tuy thế đo sự
phát triển về cơ thể và các chức năng hoạt động nội tiết, các em bắt đầu có
những đòi hỏi và nhu cầu về tình dục một cách tự nhiên, trong khi về mặt tâm
lý, các em lại muốn khám phá, thử thách. Ngoài ra việc cố tình giấu giếm thông
tin, không dám đề cập vấn đề một cách khoa học của người lớn và cả các phong
tục, lễ giáo trong gia đình và xã hội ràng buộc khiến các em không biết hỏi ai,
tìm hiểu ở đâu. Các em chỉ còn cách trao đổi thầm kín với nhau trong nhóm bạn
bè thân thiết và do đều là những trẻ không có kinh nghiệm gì như nhau nên dễ đưa
đến những nhận thức lệch lạc, nhất là trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, nhiều
thông tin sai lạc, các hình ảnh khiêu dâm, đồi trụy lại đầy rẫy trên các loại
phim ảnh, vi deo ngoài luồng, trên mạng internet càng làm cho các em dễ dàng bị
xâm hại. Vì thế các hành động tình dục dễ dàng diễn ra trong các em cùng lứa
tuổi và hậu quả của nó là hiện tượng mang thai ngoài ý muốn tăng lên, ảnh hưởng
rất lớn đến sức khỏe, tương lai hạnh phúc của các em sau này và có khi nguy
hiểm cả về tính mạng.
Ngoài những nguy cơ về bệnh tật, tai nạn có thể xảy ra
đối với mọi nhóm tuổi, các em thuộc lứa tuổi VTN có hai nguy cơ lớn cần phải
nói đến là tình trạng mang thai ngoài ý muốn (gây ra hay mắc phải) và nguy cơ
mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh LTQĐTD, HIV/AIDS.
Các bậc cha mẹ cần nhớ rằng, lứa tuổi VTN là sự chuyển
tiếp từ trẻ em sang người lớn; các em hầu như chưa biết và chưa hề có kinh
nghiệm gì trong cuộc sống, nhất là về các hoạt động tình dục; tuy thế do sự
phát triển về cơ thể và các chức năng hoạt động nội tiết, các em bắt đầu có
những đòi hỏi và nhu cầu về tình dục một cách tự nhiên, trong khi về mặt tâm
lý, các em lại muốn khám phá, thử thách. Ngoài ra việc cố tình giấu giếm thông
tin, không dám đề cập vấn đề một cách khoa học của người lớn và cả các phong
tục, lễ giáo trong gia đình và xã hội ràng buộc khiến các em không biết hỏi ai,
tìm hiểu ở đâu. Các em chỉ còn cách trao đổi thầm kín với nhau trong nhóm bạn
bè thân thiết và do đều là những trẻ không có kinh nghiệm gì như nhau nên dễ
đưa đến những nhận thức lệch lạc, nhất là trong hoàn cảnh xã hội ngày nay,
nhiều thông tin sai lạc, các hình ảnh khiêu dâm, đồi trụy lại đầy rẫy trên các
loại phim ảnh, vi deo ngoài luồng, trên mạng intemet càng làm cho các em dễ
dàng bị xâm hại. Vì thế các hành động tình dục dễ dàng diễn ra trong các em
cùng lứa tuổi và hậu quả của nó là hiện tượng mang thai ngoài ý muốn tăng lên,
ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tương lai hạnh phúc của các em sau này và có
khi nguy hiểm cả về tính mạng.
Khi có quan hệ tình dục với bạn trai, các em VTN gái
hầu như không thể biết bạn mình có bệnh hay không, không thể biết người đó có
nhiều bạn tình hay không, bạn ấy đã có lần nào "đi" với gái mại dâm
hay không. Việc quan hệ tình dục đối với các em lúc này vì không hợp pháp nên
thường "vụng trộm", ở bất kỳ nơi đâu miễn là vắng vẻ, kín đáo, không
ai biết đến; vì thế không được chuẩn bị và thiếu điều kiện vệ sinh nên rất dễ
mang theo các mầm bệnh đi sâu vào trong mà ở đường sinh dục nữ, do cấu tạo đặc
biệt của nó (nhiều khe kẽ, nếp gấp, luôn luôn tiết dịch lại có khả năng thông
đến ổ bụng...) nên dễ dàng nhiễm bệnh hơn là ở các VTN nam. Khi đã mắc phải
bệnh LTQĐTD các em lại muốn giữ bí mật và thường xấu hổ không dám đi khám để
chạy chưa kịp thời vì thế bệnh tình thường nặng, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe
và có thể gây biến chứng tại đường sinh sản, tác động xấu đến khả năng sinh đẻ
sau này. Đó là chưa kể đến việc bị nhiễm bệnh LTQĐTD rất nguy hiểm hiện nay là
HIV/AIDS, một bệnh sớm muộn sẽ đưa đến tử vong vì chưa có thuốc điều trị và
phòng ngừa.
Câu 31.
Những bệnh LTQĐTD thường gặp nhất hiện nay là gì?
Các bệnh LTQĐTD hiện nay có khoảng trên 24 loại nhưng
phổ biến hơn cả là các bệnh lậu, giang mai, HIV/AIDS, sùi mào gà, viêm gan
virut và viêm âm đạo do trùng roi (Tnchomonas). Sau đây là một số bệnh, các bậc
cha mẹ cần biết để giúp VTN phòng tránh:
Bệnh lậu
* Bệnh lậu do một loại vi khuẩn hình cầu, ghép với
nhau từng đôi, trên kính hiển vi cho hình ảnh giống như hạt cà phê, được gọi là
song “cầu khuẩn lậu”.
* Bệnh được truyền từ người có bệnh sang người lành
chủ yếu thông qua quan hệ tình dục, gây tổn thương chủ yếu tại bộ phận sinh dục
nhưng cũng có thể ở mắt (trẻ sơ sinh bị nhiễm vi khuẩn lậu của mẹ khi đẻ) , ở
mồm và ở hậu môn.
* Thời gian ủ bệnh (từ lúc nhiễm vi khuẩn đến khi phát
bệnh) ngắn: 2 – 6 ngày.
* Triệu chứng chính là đái dắt, đái đau, đái bua (nam
giới rõ rệt và mức độ rầm rộ hơn nữ giới), có mủ chảy ra từ lỗ đái. Nữ ra nhiều
khí hư. Có thể sốt mệt mỏi. Vi khuẩn lậu có thể lan xa hơn trong đường sinh dục
gây viêm mào tinh hoàn, túi tinh, tuyến tiền hệt, đường dẫn tinh ở nam giới,
gây vô sinh nam; có thể gây viêm, ứ mủ tại ống dẫn trứng, viêm buồng trứng,
viêm tiểu khung ở nữ, cũng rất dễ dẫn đến vô sinh nữ.
* Hiện nay một số thuốc có thể chữa khỏi bệnh lậu
nhanh chóng với một liều duy nhất nhưng phải do thầy thuốc chuyên khoa da liễu
điều trị vì có nhiều thuốc chữa lậu đã bị vi khuẩn kháng thuốc, không còn tác
dụng. Ngoài người bệnh ra, việc điều trị cần phải tiến hành cho tất cả những
người có quan hệ tình dục với người đó.
Bệnh giang
mai
* Bệnh giang mai do một loại vi khuẩn hình xoắn như lò
xo gọi là xoắn khuẩn giang mai gây nên. Bệnh lây chủ yếu qua quan hệ tình dục
và bệnh tích ban đầu (vết loét giang mai) cũng chủ yếu tại đây. Nếu không được
điều trị thì các giai đoạn sau của giang mai bệnh sẽ lan ra toàn thân và trong
các phủ tạng.
* Thời gian ủ bệnh trung bình từ 2 đến 4 tuần, sau đó
bệnh giang mai diễn biến theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời . Biểu hiện chính là
vết loét giang mai tại bộ phận sinh dục như ở quy đầu (với nam), môi lớn, môi
bé, âm đạo, cổ tử cung (với nữ). Vết loét có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu
dục, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm
nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch 2 bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau. Vết
loét này có thể tự biến đi sau 6 đến 8 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều
người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh
vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
Giai đoạn 2: Thường bắt đầu sau khi có vết loét từ 6 đến 9 tháng, chủ yếu biểu hiện
bằng các tổn thương trên da với các nết ban màu hồng như hoa đào (đào ban), vết
sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc.
Giai đoạn 3: Giang mai phát triển trong các phủ tạng
như não, gan, cơ bắp tim mạch... gây nên các bệnh cảnh khác nhau tay bộ phận cơ
thể bị nhiễm giang mai.
* Giang mai ở phụ nữ có thể gây sảy thai, làm thai
chết trong tử cung, gây thai dị dạng và có thể gây giang mai bẩm sinh cho thai
ngay khi còn trong bụng mẹ.
* Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi
hẳn với hiệu quả cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn
của thầy thuốc.
Bệnh
HIV/AIDS
* AIDS (đọc là "ết") là bệnh suy giảm miễn
dịch mắc phải do virut (còn gọi là siêu vi khuẩn) có tên là HIV gây nên. Virut
HIV được truyền từ người bệnh sang người lành qua các đường tình dục, tiêm
chích, truyền máu (có mang mầm bệnh) và từ mẹ sang con (khi mang thai, trong
khi đẻ và khi cho con bú).
* Người bị nhiễm HIV thời gian đầu không hề có triệu
chứng gì, từ 3 đến 6 tháng sau nếu làm xét nghiệm máu mới phát hiện là có HIV
nhưng cơ thể người này vẫn bình thường. Phải vài năm sau, có khi phải tới 10-
15 năm bấy giờ bệnh AIDS mới phát ra gây tử vong cho người bệnh. Điều nghiêm
trọng là ngay khi chưa phát bệnh, HIV trong máu và trong các dịch cơ thể của
người bệnh (như tinh dịch, dịch tiết âm đạo...) vẫn có thể truyền sang cho
người lành làm cho người đó nhiễm HIV và cũng sẽ trở thành nạn nhân của AIDS
trong tương lai.
* HIV/AIDS hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa khỏi bệnh;
cũng chưa có thuốc phòng ngừa, vì vậy vấn đề quan trọng nhất là phải tự phòng
tránh bằng cách không để bị nhiễm HIV do tiêm chích, do truyền máu và do quan
hệ tình dục không an toàn (quan hệ tình dục với người có nhiều bạn tình, với
gái bán dâm, không dùng bao cao su hoặc dùng nhưng không đúng cách).
Bệnh sùi mào
gà
* Đây là bệnh do một loại virut thuộc nhóm HPV gây ra.
Bệnh tích chủ yếu ở bộ phận sinh dục, biểu hiện bằng các nốt sùi mọc ra dưới da
hay trong niêm mạc đường sinh dục.
* Các nết sùi này có thể mọc ở ngoài da của bộ phận
sinh dục nam và nữ. Ở phụ nữ, sùi mào gà còn mọc trong âm đạo hoặc cổ tử cung.
Nụ sùi có thể nhỏ như đầu đanh ghim, có thể to như hạt dỗ, hạt ngô và khi nằm
sát nhau ghép lại có khi sùi to như hoa "súp lơ". Sùi mào gà không
đau, không ngứa, khi có nhiều nụ sùi có thể ẩm ướt để nhiễm khuẩn và khi ấy tổn
thương tiết dịch, hôi, dễ chảy máu và gây đau.
* Điều trị sùi mào gà có thể dùng thuốc bôi tại chỗ,
có thể đất thương tổn bằng điện, laser hay áp lạnh tại các khoa da liễu hay
khoa phụ sản.
Bệnh viêm
gan virut
* viêm gây viêm gan có nhiều loại nhưng phổ biến hiện
nay virut gây bệnh qua đường tình dục là các virut B và C. Hai virut này gây
bệnh toàn thân (sốt, vàng da, mệt mỏi, chán ăn, gan to . . . ) do gan của người
bệnh bị thương tổn. Ngoài đường lây qua quan hệ tình dục, viêm gan virut B và C
còn lây qua đường tiêm chích, truyền máu và từ mẹ sang con giống như với
HIV/AIDS.
* Cần biết là có những người bị nhiễm viêm mà vẫn bình
thường, không có biểu hiện bệnh (gọi là người lành mang mầm bệnh) nhưng nguy
hiểm ở chỗ họ vẫn có thể lây nhiễm sang người khác qua quan hệ tình dục hoặc có
sự tiếp xúc của máu hai người với nhau (tiêm chích bằng bơm tiêm có dính máu
của người mang mầm bệnh, truyền máu người có mầm bệnh cho người lành). Người
nhiễm virut viêm gan có nguy cơ bị viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan.
* Bệnh viêm gan do viêm chưa có thuốc chữa nhưng ở
nước ta đã chế tạo được vacxin phòng bệnh viêm gan B; hiện nay vacxi này đã
được tiêm cho trẻ ngay từ khi mới sinh và có thể tiêm cho bất cứ ai muốn phòng
ngừa để không bị nhiễm viêm viêm gan B.
Bệnh viêm âm
đạo do trùng roi
* viêm âm đạo ở phụ nữ có thể do nhiều mầm bệnh khác
nhau gây nên như viêm do vi khuẩn thông thường, viêm do nấm và viêm do ký sinh
trùng roi (loại Trichomonas). Trong các loại đó, viêm âm đạo trùng roi là loại
bệnh lây lan qua đường tình dục.
* Trùng roi là một loại ký sinh trùng đơn bào, ở đầu
và đuôi có những sợi nhỏ dài như cái roi, nhờ đó nó di động được dễ dàng trong
khí hư nên gọi là trùng roi. Trùng roi có thể sống ký sinh trong đường sinh dục
nam và nữ nhưng ở nam giới ít có triệu chứng nên khó phát hiện và là nguồn lây
thường xuyên cho phụ nữ.
* Phụ nữ bị viêm âm đạo do trùng roi thường có cảm
giác ngứa ngáy bên trong âm đạo, khí hư loãng, tanh và có bọt, lấy khí hư soi
trên kính hiển vi sẽ thấy trùng roi đang cử động.
* Bệnh có thể điều trị bằng thuốc uống và thuốc đặt
tại chỗ nhưng cần phải chữa cho cả người có quan hệ tình dục với người bệnh thì
mới tránh được tái nhiễm.
VTN khi mắc bệnh
LTQĐTD thường có những biến chứng hậu quả nào?
* Vô sinh.
* Chửa ngoài dạ con.
* Hẹp niệu đạo ở nam.
* Tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.
* Các nhiễm khuẩn vùng tiểu khung, viêm hố chậu . . .
* Mắc viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh LTQĐTĐ sẽ làm
tăng nguy cơ nhiễm HIV lên từ 2 - 10 lần.
* Tử vong do AIDS và 1 số nhiễm khuẩn nghiêm trọng
khác.
* Đẻ con ra có thể thiếu cân, mù loà, viêm phổi hoặc
trì độn trí tuệ.
Câu 30. Bệnh
lây truyền qua đường tình dục là gì?
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục còn có tên gọi
mới là "Nhiễm khuẩn đường sinh sản và Bệnh lây truyền qua đường tình dục
(NKĐSS và BLTQĐTĐ).
NKĐSS và bệnh LTQĐTD là những bệnh lây từ người này
sang người khác qua bất kì hình thức tình dục không an toàn.
Trước kia người ta sử dụng thuật ngữ các bệnh hoa
liễu. Đến nay người ta tìm thấy khoảng 24 bệnh LTQĐTĐ. Trong các bệnh lây, một
số có thể lây qua đường khác như đường máu, mẹ truyền cho con khi có thai, khi
cho con bú, nhưng tình dục là đường lây chủ yếu.
Một số bệnh LTQĐTĐ thường gặp là: Bệnh lậu, bệnh giang
mai, bệnh chlamydia, bệnh trùng roi, bệnh mụn rộp, bệnh mụn cơ quan sinh dục
(sùi mào gà), viêm gan B, viêm gan C, bệnh rận mu.
Câu 32. Làm
thế nào để biết có bị mắc bệnh LTQĐTD hay không?
Bệnh lây truyền qua đường tình dục thường không có dấu
hiệu (triệu chứng) rõ ràng để phát hiện. Chỉ có thể phát hiện được bệnh một
cách chính xác bằng các xét nghiệm tại các cơ sở y tế. Hãy cho con bạn đi khám
sức khoẻ nếu con bạn có bất kỳ một trong các dấu hiệu sau:
* Có dịch tiết ra không bình thường từ âm đạo, dương
vật hoặc hậu môn.
* Khi đi tiểu thì cảm thấy đau nhói, rát hoặc buốt.
* Trên da xung quanh bộ phận sinh dục thấy xuất hiện:
mụn lở loét, nốt phồng rộp, u cục hoặc ban đỏ.
* Ngứa ở lông mu.
* Bị đau ở vùng bụng dưới rốn.
* Xuất hiện nết ban trên tay hoặc chân nhưng không
ngứa.
Lưu ý: Trong đa số các trường hợp, viêm nhiễm đường
sinh sản và bệnh LTQĐTD ở nữ giới thường không có triệu chứng, khi phát hiện
được thường ở những giai đoạn muộn.
Các triệu chưng của bệnh LTQĐTD ở nam giới thường xuất hiện trong khoảng 1 tuần
sau khi có quan hệ tình dục, Tuy nhiên, các dấu hiệu này đôi khi chỉ thoáng qua
và không được phát hiện, bệnh chuyển sang giai đoạn mãn tính và điều trị khó
hơn.
Câu 33. Nên
xử trí thế nào khi một VTN gái nghi ngờ bị mắc bệnh LTQĐTD?
Nếu không may một em gái trong tuổi VTN nghi ngờ bị
mắc loại bệnh LTQĐTD thì không nên ngần ngại mà đến ngay cơ sở chuyên khoa da
liễu để được thăm khám, tìm rõ nguyên nhân, xác định đúng bệnh và được điều trị
ngay từ lúc bệnh mới có triệu chứng ban đầu.
Nhiều bệnh LTQĐTD hiện nay có thể chữa khỏi được hoàn
toàn, không để lại di chứng gì như: bệnh
lậu, bệnh giang mai, bệnh viêm âm đạo do trùng roi và một số bệnh khác do các
loại vi khuẩn gây nên; vì thế nếu được phát hiện sớm và chữa chạy đúng thì các
em có thể hoàn toàn yên tâm về sức khỏe sinh sản của mình trong tương lai.
Câu 34. Làm
thế nào để phòng tránh LTQĐTD và HIV ở tuổi VTN?
* Không quan hệ tình dục.
* Nếu quan hệ tình dục thì phải dùng bao cao su đúng
cách.
* Riêng đối với HIV/AIDS thì còn cần phải phòng tránh
lây nhiễm qua đường máu như không dùng chung bơm kim tiêm, các vật sắc nhọn.
Câu 35. Có
thể tìm kiếm sự hỗ trợ ở đâu?
Cha mẹ nói để con hiểu rằng các em có quyền được hỗ
trợ, giúp đỡ khi gặp khó khăn Cha mẹ hoặc chính các em có thể tìm đến các cơ sở
tư vấn để nhận được sự hỗ trợ cần thiết. Tại đây có thể tự do giải bày những
khó khăn, những vấn đề bản thân đang phải đương đầu mà không bị căn vặn, chê
trách, phán xét. Những bí mật của các em sẽ được giữ kín, nếu các em hoặc cha
mẹ yêu cầu, khó khăn sẽ được giải toả hoặc giúp đỡ để tìm ra cách tháo gỡ.
Các địa chỉ tư vấn:
* các thầy cô giáo.
* Các cán bộ y tế (của các bệnh viện, trung tâm y tế
của địa phương, phòng y tế của trường).
* Ủng bộ tư vấn của các trung tâm tư vấn tâm lý.
* Ban biên tập các chuyên mục này trên các báo: Hoa
học trò, Phụ nữ, Tiền phong, Pháp luật, Công an nhân dân, An ninh Thủ đô . . .
* Cán bộ các trung tâm bảo trợ xã hội.
* Tư vấn trực tuyến miễn phí về HIV/AIDS, sức khoẻ
tình dục và sức khoẻ sinh sản, địa chỉ: http//www.tamsubantre.org.
* Các trang Web về SKSS như:
http//www.suckhoe360.com/Tuoi-teen
http//www.moh.goh.vn
http//www.cimsi.om.VIVTVTN
http//www.gioitinhtuoiteen.om.vu
http//www.giadinh.net.vn/home/18549p0c100/tu-van-ve-suc-khoe-sinh-san-cho-vi-thanh-nien.htm.
Câu 36. Xâm
hại tình dục là gì?
Xâm hại tình dục VTN bao gồm lạm dụng tình dục và bóc
lột tình dục VTN.
Lạm dụng tình dục VTN là sử dụng các em để thoả mãn
nhu cầu tình dục của người lớn hơn , không nhằm mục đích kiếm tiền.
Lạm dụng tình dục VTN phổ biến ở các dạng: Hiếp dâm,
loạn luân, hành vi dâm ô (nhằm thoả mãn dục vọng của mình, nhưng không có giao
cấu).
Chuyện lạm dụng tình dục xảy ra ngay cả khi người lớn
hơn sờ mó, đụng chạm vào các bộ phận kín của các em hoặc yêu cầu các em sờ mó,
đụng chạm vào các bộ phận kín của người lớn đó.
Bóc lột tình dục trẻ em là sử dụng trẻ em để thoả mãn
dục vọng của người lớn nhằm mục đích kiếm tiền, trục lợi. Bóc lột tình dục trẻ
em phổ biến ở dạng: Mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ nhằm mục đích mại dâm, văn hoá
phẩm khiêu dâm trẻ em nhằm mục đích kinh doanh.
Câu 37. Tác
hại của xâm hại tình dục VTN là gì?
* Làm tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, tâm lí, sức
khoẻ và ảnh hưởng đến tương lai của VTN.
* Làm gia tăng tệ nạn mãi dâm, tệ nạn buôn bán phụ nữ,
tăng sự lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh LTQĐTD.
* Gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và truyền
thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta.
Câu 38. Ai
có thể xâm hại tình dục VTN?
Kẻ xâm hại tình dục không như người ta thường nghĩ là
những người lạ, thực tế cho thấy họ còn có thể:
* Là người quen, thậm chí còn có thể là người trong
họ, trong gia đình.
Tình huống này là điều thường không thể ngờ được đối
với VTN.
* Có địa vị, có học vấn, trông có vẻ đáng kính, không
có vẻ đáng ngờ và không gây sợ hãi cho người khác.
* Khéo léo khôn ngoan, rất giỏi kết bạn với VTN và
các, thành viên trong gia đình.
* Là đàn ông hoặc đàn bà, có thể giàu hoặc nghèo, làm
bất cứ nghề gì.
* Họ có thể là kẻ trực tiếp xâm hại tình dục VTN, hoặc
là kẻ tổ chức , môi giới, dẫn dắt cho kẻ khác (giúp kẻ khác thực hiện hành vi
xâm hại tình dục VTN để kiếm tiền trục lợi).
Câu 39. Thủ
đoạn của kẻ xâm hại tình dục là gì?
* Mua chuộc , lấy lòng tin của các em và cha mẹ các em
bằng cách:
* Tặng quà, dạy các em học, chơi nhạc, thể dục thể
thao.
* Thường xuyên gần gũi, giúp đỡ, hứa giúp các em hoặc
gia đình việc này
* Thường rủ các em đi chơi riêng đến chỗ vắng hoặc vào
phòng kín.
* Họ làm tất cả những việc đó để gần gũi các em nhằm
thực hiện những hành vi xâm hại tình dục.
Câu 40. Cha
mẹ cần lưu ý điều gì để phát hiện con đã bị lạm dụng tình dục?
Con cái có thể dấu bố, mẹ những bí mật mà chúng đã
phải trải qua do xấu hổ hoặc khó nói. Vì vậy, cha mẹ cần nhạy cảm đoán nhận và
gợi hỏi để con kể ra. Nhiều khi do không chịu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự
thay đổi thái độ của con, nên cha mẹ đã vô tình tiếp tục đẩy con đến nơi có
nguy cơ bị lạm dụng tình dục.
Cha mẹ có thể tham khảo một vài dấu hiệu sau đây để
đoán nhận có thể con đã bị lạm dụng tình dục hoặc có quan hệ tình dục sớm:
* Tâm trạng bất ổn, có biểu hiện lo lắng, nhất là khi
chỉ có một mình, thậm chí hoảng lcạn, muốn che dấu điều gì bí ẩn.
* Các em có thể lặp lại những gì đã trải qua, những
điều đã chứng kiến. Những hành vi thường thấy là tự kích thích, cọ sát bộ phận
sinh dục vào đồ đạc, quan tâm đến những chủ đề về tình dục.
Câu 41. Khi
biết con bị xâm hại tình dục cha mẹ nên xử lí như thế nào?
Khi biết con bị xâm hại tình dục:
* Cha mẹ cần bình tĩnh giải quyết sự việc, không để
xảy ra những hậu quả xấu hơn. Hãy nghĩ đến những người tin cậy để tìm sự giúp
đỡ như ông bà, cô dì, giáo viên, bác sĩ, công an, cán bộ tư vấn.
* Cha mẹ cần cách ly con với kẻ xâm hại tình dục.
* Cha mẹ cần trấn an tinh thần, động viên, an ủi:
Không ai ghét bỏ con, con không phải là người xấu trong việc này. Tập trung vào
học tập hoặc việc làm hàng ngày và vui chơi giải trí, đó là cách tốt nhất để
quên đi việc đã xảy ra và lấy lại thăng bằng cho mình. Không để xảy ra xung đột
trong gia đình vì sẽ làm tổn thương con nhiều hơn.
* Cha mẹ giúp con phục hồi ngay sức khoẻ cho con, đưa
con đến trung tâm y tế hoặc bệnh viện để kiềm tra, xác định tình trang thương
tích và chữa trị kịp thời, đặc biệt quan tâm chăm sóc, giám sát con cho đến khi
con trở lại bình thường.
* Gia đình có quyền giữ bí mật, nhưng tốt hơn là tố
giác sự việc với chính quyền, công an, toà án để xử lí kẻ phạm tội. Nhất là khi
đã có nhiều người biết sự việc thì kiên quyết không thoả hiệp với kẻ phạm tội
như nhận tiền hoặc vật chất của kẻ đó để im lặng.
* Xử lý kẻ phạm tội là một trong những yếu tố để giải
toả tâm lí cho con và ngăn ngừa tội phạm.
Câu 42. Cha
mẹ cần dặn con những gì để đề phòng bị xâm hại tình dục?
Bị xâm hại tình dục không phải là biểu hiện do quan hệ
giới tính không lành mạnh của VTN, mà chính các em là nạn nhân đáng tiếc. Tuy
nhiên khi đã bị lạm dụng tình dục, rất có thể nạn nhân trở nên hận đời, muốn
trả thù đời, hoặc có suy nghĩ tiêu cực cho rằng cuộc đời mình như vậy đã hết,
do đó sẽ có những hành vi đáng tiếc như: Sống phóng đãng, lạm dụng xâm hại
người khác…Do đó việc phòng ngừa cho VTN không bị xâm hại tình dục vừa là để
bảo vệ con, vừa là giáo dục phòng ngừa, giúp hình thành quan hệ giới tính lành
mạnh.
Cha mẹ cần dành thời gian để quan tâm đến con và dặn
con những điều sau để đề phòng bị xâm hại tình dục:
* Dặn dò để các em không nhận quà của người lớn khi
không có lí do;
* Từ chối sự giúp đỡ của người lạ mặt;
* Giữ khoảng cách đủ xa để người lạ không thể đụng
chạm đến mình;
* Tránh xa ào tình huống bất lợi như đến nơi vắng vẻ,
tối tăm;
* Tránh xa ào người đáng ngờ;
* Không ở trong phòng một mình với người lạ;
* Mặc kín đáo tránh khêu gợi dục vọng của người tiếp
xúc;
* Hướng dẫn các em có khả năng nhận biết và kỹ năng
thoát khỏi các tình huống nguy hiểm.
Cha mẹ giải thích cho con hiểu khi gặp tình huống có
nguy cơ bị xâm hại cần nói "không" hay "trốn chạy" hoặc
"thét lên" và kiên quyết thoát khỏi tình huống nguy hiểm. Sau đó tìm
người tin cậy giúp đỡ và cần kể lại chuyện xảy ra cho người khác nghe.
Câu 43. Thế
nào là kết hôn sớm?
Kết hôn sớm là kết hôn ở tuổi VTN, kết hôn khi đang
còn đi học, kết hôn trước tuổi luật pháp cho phép (Luật Hôn nhân và gia đình ở
Việt Nam
cho phép tuổi kết hôn của nam giới là 20 và nữ giới là 18), . . .
Câu 44. Kết
hôn sớm có những ảnh hưởng như thế nào?
Nếu bước vào cuộc sống gia đình quá sớm các em sẽ phải
đối diện với những vấn đề sau:
* Không có cơ hội được tiếp tục học tập và làm việc: Kết hôn sớm có thể sẽ khiến các em phải nghỉ học hoặc
gặp rất nhiều khó khăn trong công việc bởi vì các em sẽ phải đối diện với những
lo toan của cuộc sống gia đình, đặc biệt là rất bận bịu với việc chăm em bé.
Chính nhược điểm rất khó khăn để khắc phục này sẽ khiến cơ hội học tập, sự
nghiệp tương lai của các em bị kìm hãm và sức khoẻ bị xuống dốc.
* Dễ xảy ra những mâu thuẫn: Khi chưa nhận thức được đầy đủ về trách nhiệm làm vợ,
làm mẹ, làm cha, làm con đối với gia đình mới các em sẽ rất dễ bị stress. Từ đó
những mâu thuẫn sẽ nảy sinh nhiều hơn, những va chạm bởi thế cũng thường xuyên
hơn. Điều này khiến các em đau đầu và già trước tuổi.
* Làm cho mọi người thân phải luôn lo lắng cho cuộc sống
mới của các em: Khi các em lập
gia đình quá sớm, những người thân trong gia đình sẽ luôn cảm thấy không an tâm
khi nghĩ về cuộc sống mới của các em. Bởi vì họ chưa tin tưởng các em có thể đủ
sức gánh vác với cuộc sống đầy những lo toan và trách nhiệm nặng nề này.
Làm mẹ trẻ khi cơ thể phát triển chưa đấy đủ là nguyên
nhân dẫn đến đẻ non, đẻ nhẹ cân (trẻ sinh ra dưới 2,500g) trẻ dễ mắc các bệnh
và thường bị tử vong trước 1 tuổi. Tỷ lệ tử vong của các bà mẹ dưới 18 tuổi cao
gấp đôi so với tỷ lệ tử vong của các bà mẹ từ 20 - 24 tuổi.
Câu 45. Có
những nguyên nhân nào dẫn đến kết hôn sớm?
Nguyên nhân dẫn đến kết hôn sớm là do:
* Thiếu hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình .
* Nhu cầu có thêm nhân lực để lao động sản xuất (ở các
vùng nông thôn)
hoặc do cha mẹ ép đặt, bắt buộc.
* Phong tục tập quán lạc hậu.
* Các em thiếu thông tin, kiến thức về SKSS VTN, SKTĐ
hoặc có nhưng không đầy đủ, thiếu chính xác dẫn đến lỡ có thai ngoài ý muốn nên
phải kết hôn ở tuổi VTN.
* Sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và tổ
chức thanh niên thiếu chặt chẽ và đồng bộ.
* Xã hội, cộng đồng chưa thật sự quan tâm tạo mọi cơ
hội cho các em được học tập, vui chơi, giải trí, xây nghiệp, lập nghiệp ổn
định.
Câu 46. Làm
thế nào để phòng ngừa kết hôn sớm?
Để phòng ngừa kết hôn sớm ở lứa tuổi VTN, cha mẹ cần:
* Thông tin đầy đủ, chính xác cho các em về SSKSS,
SKTD đề các em phòng tránh được hậu quả đáng tiếc có thể xẩy ra như có thai
ngoài ý muốn.
* Các thành viên trong gia đình nắm vững những nội
dung cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình.
* Gia đình thường xuyên phối hợp với nhà trường và các
tổ chức xã hội thống nhất về giáo dục tình bạn, tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc
gia đình cho VTN. Đồng thời tạo điều kiện để các em tham gia các hoạt động vui
chơi, giải trí lành mạnh ở nhà trường và ở địa bàn dân cư.
*
Tăng cường nhận thức cho những cha mẹ, ông bà còn cổ hủ, lạc hậu và những gia
đình vi phạm luật hôn nhân và gia đình. Gia đình cam kết không vi phạm tuổi kết
hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình.